BÁO CÁO THƯỜNG NIÊN: PVCFC

Tổng quan

ngành phân bón năm 2023

Thị trường phân bón thế giới

Thị trường Urê

Năm 2023 đánh dấu một năm tăng trưởng đáng chú ý trên thị trường Urê toàn cầu, với công suất thiết kế đạt mức cao nhất trong 14 năm, cán mốc 190,4 triệu tấn, tăng 4,1% so với năm 2022. Tuy nhiên, thực tế sản lượng Urê chỉ tăng nhẹ 1% so với năm trước, đạt 157,9 triệu tấn. Sự tăng trưởng này chủ yếu đến từ khu vực Châu Á (Trung Quốc, Brunei, Indonesia, và Ấn Độ); Châu Âu (Nga và Ukraine). Trong khi đó, một số khu vực như Tây Á và Châu Mỹ chứng kiến suy giảm sản lượng.

Đặc biệt, Ấn Độ và Bangladesh chứng kiến sự khởi đầu hoạt động của các nhà máy Urê mới: Ấn Độ dự kiến có 6 nhà máy mới, mỗi nhà máy có công suất 1,3 triệu tấn/năm; và Bangladesh khai trương nhà máy Urê lớn nhất Nam Á với công suất 924 nghìn tấn Urê/năm. Trung Quốc cũng đưa vào sử dụng 3 nhà máy mới từ tháng 10/2023. Brunei và Indonesia ghi nhận sự tăng trưởng sản lượng Urê mạnh mẽ, trong khi khu vực Trung Đông, ngoại trừ Ai Cập, chứng kiến sự giảm sản xuất ở Iran và Ả Rập Saudi. Châu Âu, nhất là Nga và Ukraine, cũng ghi nhận sự tăng trưởng sản lượng Urê nhờ việc các nhà máy quay lại hoạt động sau giai đoạn khó khăn vì giá khí đốt tăng cao năm trước.

SẢN LƯỢNG URÊ TOÀN CẦU ĐẠT

157,9

triệu tấn

1%

so với năm 2022

Thị trường Phosphate

Trong năm 2023, dự kiến năng lực sản xuất Phosphate toàn cầu sẽ đạt 63,6 triệu tấn P2O5, tăng 3% so với năm trước. Sản lượng thực tế cũng dự kiến tăng 3% lên 52,7 triệu tấn P2O5, nhờ sự phục hồi của ngành sản xuất ở Châu Phi, Nam Á, và Đông Á. Đến năm 2024, dự kiến năng lực sản xuất Phosphate sẽ tiếp tục tăng 2%, đạt 64,7 triệu tấn P2O5, và sản lượng thực tế dự kiến tăng thêm 3%, lên 54,4 triệu tấn P2O5.

SẢN LƯỢNG P2O5 TOÀN CẦU ĐẠT

52,7

triệu tấn

3%

so với năm 2022

Thị trường Kali

Năm 2023, dự kiến năng lực sản xuất Kali toàn cầu sẽ đạt 64,3 triệu tấn, tăng 2% so với năm 2022. Sản lượng thực tế dự kiến đạt 48,5 triệu tấn, tăng 4% so với năm trước, do nguồn cung tăng từ các thị trường như Lào và Canada, cũng như từ việc vận hành các nhà máy mới và tăng công suất hoạt động. Tuy nhiên, sản lượng tại một số nhà máy ở Nga và Belarus giảm do ảnh hưởng của xung đột Nga-Ukraine và các lệnh trừng phạt từ Mỹ và EU.

Lào, Thái Lan, Việt Nam, và Canada là những điểm sáng về sự phát triển và kế hoạch mở rộng sản xuất Kali. Trong đó, Lào khởi động lại sản xuất MOP, Thái Lan tái khởi động dự án khai thác quặng Kali, Việt Nam lên kế hoạch sản xuất thương mại MOP và Canada tiếp tục phát triển dự án mỏ Kali Jansen. Tuy nhiên, Canada cũng ghi nhận sự giảm sản lượng tại nhà máy Mosaic và đóng cửa mỏ Kali do tồn kho cao, trong khi Hoa Kỳ dự kiến tăng doanh số bán Kali. Belarus và Nga chứng kiến sự giảm sản lượng do các lệnh trừng phạt và xung đột.

SẢN LƯỢNG kali TOÀN CẦU ĐẠT

48,5

triệu tấn

4%

so với năm 2022

Thị trường NPK

Giá NPK toàn cầu trong năm 2023 chứng kiến sự giảm liên tục từ tháng 1 đến tháng 7, do người mua hạn chế tham gia thị trường vì không chắc chắn về xu hướng giá, tồn kho cao, và giá phân đơn cũng giảm. Từ tháng 8 đến tháng 12, giá NPK nhích nhẹ trở lại ở hầu hết các thị trường do giá nguyên liệu thô tăng và nhu cầu mua cao. Điều này dẫn đến giá NPK 16-16-16 tại Đông Nam Á giảm 27% xuống 522 USD/tấn, và tại Trung Quốc giá NPK 15-15-15 giảm 22% xuống 554 USD/tấn. Tại Ma-rốc, giá giảm 32% xuống 506 USD/tấn.

Trong nửa đầu năm, thị trường NPK tập trung vào các đấu thầu lớn tại Ấn Độ nhưng nhiều đấu thầu bị hủy vì người mua không chấp nhận giá. Từ tháng 1 đến tháng 7, giá NPK 16-16-16 tại Đông Nam Á giảm 31%, và tại Ấn Độ giá NPK 10-26-26 giảm 32%. Nguồn cung hạn chế từ tháng 1 đến tháng 7 do Nga và Trung Quốc áp dụng hạn chế xuất khẩu.

Tuy nhiên, từ tháng 8 đến tháng 12, giá NPK tăng trở lại do nhu cầu cao và giá nguyên liệu thô tăng. Đặc biệt, nhu cầu tại Ấn Độ, Đông Nam Á, và Châu Âu tăng. Trong khi đó, nguồn cung từ Trung Quốc giảm do hạn chế xuất khẩu, và nguồn cung từ Nga cũng hạn chế. Vào tháng 12, giá NPK 15-15-15 tại Trung Quốc tăng 3% lên 492 USD/tấn, và tại Đông Nam Á, giá NPK 16-16-16 tăng 7% lên 490 USD/tấn.

Thị trường phân bón Việt Nam

Thị trường Urê

Theo AgroMonitor, thị trường Urê tại Việt Nam trong năm 2023 chứng kiến sự gia tăng nguồn cung và sự sụt giảm nhẹ về tổng cầu, gây áp lực lên giá Urê. Giá Urê toàn cầu giảm trong nửa đầu năm cũng ảnh hưởng đến tâm lý người mua, với các giao dịch chủ yếu cho lô hàng lượng nhỏ và sự thận trọng từ phía các nhà phân phối. Tổng nguồn cung trong nước và nhập khẩu, cộng tồn kho ước tính 2,95 triệu tấn, tăng 2,35% so với năm trước. Lượng nhập khẩu tăng đáng kể, bù đắp cho sự giảm nhẹ trong sản xuất. Nhu cầu giảm nhẹ do sự sụt giảm mạnh mẽ trong xuất khẩu, trong khi tiêu thụ nội địa nhìn chung hồi phục nhẹ.

Tồn kho Urê trong năm 2023 cao hơn so với hai năm trước, với mức tồn kho đầu tháng trung bình vượt qua 400 nghìn tấn, so với 300 nghìn tấn trong năm 2022 và 220 nghìn tấn trong năm 2021. Tồn kho đạt mức cao nhất vào 2 tháng cuối năm do các nhà sản xuất và doanh nghiệp thương mại chuẩn bị hàng cho vụ Đông Xuân. Tuy nhiên, do vụ Đông Xuân bị trễ một tháng so với mọi năm, đã xảy ra tình trạng thặng dư cung trong hai tháng cuối năm, khiến giá Urê chịu áp lực giảm sau sự hồi phục nhẹ từ tháng 8 đến tháng 10.

TỔNG NGUỒN CUNG TRONG NƯỚC VÀ NHẬP KHẨU, CỘNG TỒN KHO ƯỚC TÍNH

2,95

triệu tấn

2,35%

so với năm 2022

Thị trường DAP

Theo AgroMonitor, năm 2023 chứng kiến sự gia tăng cả về nguồn cung và nhu cầu đối với DAP tại Việt Nam so với năm 2022. Tổng nguồn cung đạt 953 nghìn tấn, tăng 241 nghìn tấn, với lượng nhập khẩu tăng 25% lên 438 nghìn tấn, trong đó nhập khẩu từ Trung Quốc tăng 97%. Sản xuất trong nước cũng tăng 7,5%, dù vẫn thấp hơn so với giai đoạn 2020-2021 do khan hiếm quặng apatit.

Tổng cầu DAP trong năm ước đạt 710 nghìn tấn, tăng 150 nghìn tấn, với xuất khẩu tăng 50% lên 180 nghìn tấn. Lượng tiêu thụ nội địa cho sản xuất và trực tiếp cho cây trồng cũng đều tăng.

Tuy nhiên, do nguồn cung tăng cao hơn tổng cầu, tồn kho cuối năm 2023 tăng 59%, với tồn kho trong 7 tháng đầu năm duy trì ở mức 99-152 nghìn tấn và trong 5 tháng cuối năm tăng lên mức 170-250 nghìn tấn do lượng nhập khẩu tăng.

TỔNG NGUỒN CUNG TẠI VIỆT NAM

953

NGHÌN tấn

241 NGHÌN TẤN

so với năm 2022

Thị trường Kali

Theo AgroMonitor, giá Kali tại Việt Nam 2023 giảm liên tục nhưng không trở về mức giá trước khủng hoảng năng lượng của tháng 2/2021, dù giá Urê và DAP đã gần ngang bằng mức đó vào các tháng 6-7/2023. Giao dịch Kali ít sôi động do lo ngại rủi ro giá giảm, khiến các nhà phân phối hạn chế mua lượng lớn. Lượng tiêu thụ Kali cho cây trồng tăng nhẹ 5%, trong khi sử dụng trong sản xuất NPK giảm khoảng 15%. Tổng nhu cầu Kali giảm 17,3% so với năm trước, trong khi tổng cung cũng giảm 3,8%, chủ yếu do tồn kho đầu năm thấp, mặc dù nhập khẩu tăng 25% trong 5 tháng cuối năm. Tồn kho Kali giảm trong 7 tháng đầu năm do giải phóng hàng tồn kho giá cao và nhập khẩu hạn chế, nhưng tăng dần từ tháng 8 đến tháng 10, đạt mức cao nhất 252 nghìn tấn vào cuối tháng 10 và duy trì ở mức 228-238 nghìn tấn trong tháng 11-12.

Thị trường NPK

Theo AgroMonitor, thị trường NPK 2023 tại Việt Nam chứng kiến sự biến động cả cung và cầu. Tồn kho đầu năm giảm 16% so với đầu năm 2022, với 279 nghìn tấn. Tổng sản xuất NPK trong nước tăng nhẹ 1,36% lên 2,63 triệu tấn, bất chấp tác động từ sự suy giảm giá phân đơn nhanh hơn so với phân hỗn hợp, dẫn đến tiêu thụ phân NPK chưa hồi phục hoàn toàn. Sản xuất của các nhà máy thuộc Tập đoàn Hóa Chất giảm 7% xuống còn khoảng 1,05 triệu tấn, trong khi các nhà máy khác tăng 7,8% lên 1,58 triệu tấn.

Nhập khẩu NPK trong năm tăng đáng kể 46,7% lên 548 nghìn tấn, với nhập khẩu từ Trung Quốc và Nga tăng lần lượt 43% và 86%. Giá nhập khẩu trung bình giảm so với năm 2022, thúc đẩy nhập khẩu. Cụ thể, giá NPK từ Nga là 508 USD/tấn và từ Trung Quốc là 524 USD/tấn, dù giảm so với năm 2022 nhưng vẫn cao hơn so với năm 2021.

TỔNG sản xuất NPK trong nước

2,63

triệu tấn

1,36%

so với năm 2022